Bạn đang xem bài viết Bài 2 Trang 15 Sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trả lời câu hỏi bài 2 trang 15 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh
Hướng dẫn chi tiết trả lời bài 2 trang 15 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần trả lời câu hỏi mục Luyện tập, soạn bài Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh ngắn gọn nhất giúp các em chuẩn bị tốt kiến thức trước khi tới lớp.
Đọc đoạn văn sau và nêu nhận xét về biện pháp nghệ thuật được sử dụng để thuyết minh:
Bà tôi thường kể cho tôi nghe rằng chim cú kêu là có ma tới. Tôi hỏi vì sao thì bà giải thích: “Thế cháu không nghe tiếng cú kêu thường vọng từ bãi tha ma đến hay sao?”. Sau này học môn Sinh học tôi mới biết là không phải như vậy. Chim cú là loài chim ăn thịt, thường ăn thịt lũ chuột đồng, kẻ phá hoại mùa màng. Chim cú là giống vật có lợi, là bạn của nhà nông. Sở dĩ chim cú thường lui tới bãi tha ma là vì ở đó có lũ chuột đồng đào hang. Bây giờ mỗi lần nghe tiếng chim cú, tôi chẳng những không sợ mà còn vui vì biết rằng người bạn của nhà nông đang hoạt động.
Trả lời bài 2 trang 15 SGK Ngữ văn 9 tập 1Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng ở đoạn văn này là nghệ thuật kể chuyện: Kể câu chuyện ngày thơ ấu nghe bà kể chuyện về chim cú, khi chim cú kêu là có ma tới. Nhưng khi nhân vật được học môn Sinh học, đã hiểu hơn về kiến thức khoa học loài Cú.
Câu trả lời 2
– Biện pháp nghệ thuật được sử dụng: nghệ thuật kể chuyện.
– Tác dụng:
Dẫn dắt người đọc vào đối tượng thuyết minh.
Giải thích một cách khoa học hiện tượng “cú kêu là có ma tới”, đưa ra những lợi tích của loài chim cú.
Các em vừa tham khảo cách trả lời bài 2 trang 15 SGK ngữ văn 9 tập 1 được Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn giúp em chuẩn bị bài và soạn bài Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh tốt hơn trước khi đến lớp.
Bài 2 Trang 95 Sgk Ngữ Văn 9 Tập 1
Tài liệu hướng dẫn trả lời câu hỏi bài 2 trang 95 SGK Ngữ văn 9 tập 1 phần trả lời câu hỏi đọc – hiểu, soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích chi tiết và đầy đủ nhất.
Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều:
a) Trong cảnh ngộ của mình nàng đã nhớ tới ai ? Nàng nhớ ai trước, ai sau ? Nhớ như thế có hợp lí không, vì sao ?
b) Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Em hãy phân tích nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh của tác giả để làm sáng tỏ điều đó.
c) Em có nhận xét gì về tấm lòng Thuý Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng ?
Trả lời bài 2 trang 95 SGK Ngữ văn 9 tập 1Để soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích tối ưu nhất, Đọc Tài Liệu tổng hợp nhiều cách trình bày khác nhau cho nội dung câu hỏi bài 2 trang 95 sgk ngữ văn lớp 9 tập 1 như sau:
a. Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều. Đầu tiên Kiều nhớ tới Kim Trọng. Trong xã hội phong kiến đề cao chữ hiếu, thế nhưng ở đây Nguyễn Du lại để cho Thuý Kiều nhớ Kim Trọng trước khi nhớ về cha mẹ, điều đó có lí do của nó. Với cha mẹ dẫu sao nàng cũng mới gặp gỡ trước lúc lên đường về với Mã Giám Sinh, thứ nữa hành động bán mình để lấy tiền cứu cha và em của nàng cũng là một phần nào làm nàng yên lòng. Còn đối với Kim Trọng kể từ ngày “ngộ biến” cả hai bên chưa ai nhận được tin gì của nhau. Hơn nữa, nàng cảm thấy mình có lỗi với Kim Trọng bởi vì hoàn cảnh của gia đình mà nàng đã không giữ đúng lời thề hẹn với chàng Kim.
b.
Cách thể hiện nỗi nhớ của Kiều rất khác nhau:
– Về nỗi nhớ Kim Trọng, nàng nhớ lời thề ước dưới trăng, thương chàng Kim Trọng đêm ngày đau đáu trông chờ uổng công vô ích “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”.
Nàng hình dung cảnh Kim Trọng đợi chờ tin nàng ở quê nhà. Đồng thời cũng thể hiện tấm lòng thuỷ chung:
Chân trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Câu thơ là một câu hỏi tu từ thể hiện sự dằn vặt, đau khổ của nàng khi phải chia tay với Kim Trọng. Dù mai sau có phiêu bạt chân trời góc bể nào thì tình cảm của nàng đối với Kim Trọng vẫn nồng thắm, bất biến với không gian và thời gian.
– Nỗi nhớ cha mẹ
Nàng thương xót cha mẹ già yêu mà nàng không được chăm sóc. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là cha mẹ ngày một thêm già yếu.
Lần nào khi nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy con cái của cha mẹ. Cũng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ lại khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau.
– Nghệ thuật: trong đoạn trích, tác giả dùng rất nhiều từ ngữ hình ảnh có tính chất ước lệ: chén đồng, tin sương, tấm son, quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử để nói về tình yêu và đạo hiếu. Nhịp thơ đều đều 2/2/2 và 4/4 đã góp phần diễn tả một cách sâu sắc tâm trạng buồn chán của nàng.
c. Như vậy, dù Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức hi sinh cao đẹp, một tình yêu thủy chung và lòng hiếu thảo của một người con.
8 câu thơ tiếp theo
a. Trong cảnh giam lỏng, nàng nhớ tới Kim Trọng, sau đó nhớ về cha mẹ. Như vậy khá hợp lí, bởi với cha mẹ, nàng đã gặp trước lúc cách xa, nàng cũng đã bán thân cứu cha nên vơi bớt nỗi lo. Nhưng với người nàng thương, Kim Trọng, chàng chưa biết tin gì về gia biến nhà nàng và nàng đau đớn, day dứt không giữ được lời thề.
b. Nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh : nhiều hình ảnh ước lệ chén đồng, tin sương, tấm son, quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử…, từ ngữ thể hiện được tâm trạng đớn đau, day dứt với Kim Trọng, nỗi xót xa, lo lắng cho cha mẹ.
c.
Thúy Kiều là một người tình chung thủy, người con hiếu thảo. Nàng có tâm hồn cao đẹp, luôn nghĩ cho người khác dù mình đang cảnh mất tự do, cô đơn.
– Thúy Kiều nhớ chàng Kim trước, nhớ cha mẹ sau. Đấy là một minh chứng cho sự cảm thông sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Du đối với nhân vật. Tác giả đã ngợi ca thiên diễm tình tự do yêu đương khi chớm nở và cũng hoàn toàn cảm thông bi kịch tình yêu đổ vỡ, tan nát mà trái tim Thúy Kiều dường như lúc nào cũng rướm máu đau thương.
– Khi ở trú phường, Kiều đã bị nhục, sau đó bị ép ra tiếp khách ở thanh lâu Lâm Tri. Nỗi đau đớn lớn nhất của nàng là tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Cho nên Kiều nhớ tới Kim Trọng trước, điều này phù hợp quy luật tâm lí.
– Nhớ tới Kim Trọng, Kiều nhớ tới quãng thời gian hai người từng hạnh phúc bên nhau, nhớ lời thề nguyền. Nàng xót xa khi tưởng tượng chàng Kim mong chờ mình một cách vô vọng. Nàng tưởng tượng ra cảnh chàng Kim cũng đang nhớ về mình, mong ngóng tin mình:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ
– Thương người rồi lại thương mình. Tâm trạng Kiều đớn đau, xót xa, tủi phận:
Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
– Nhớ Kim Trọng là tưởng, nhớ cha mẹ là xót. Thương cha mẹ khi sáng (mai), khi chiều (hôm) tựa cửa ngóng tin nàng. Nàng đau xót vì cha mẹ đã tuổi già sức yếu mà nàng không được gần gũi săn sóc để quạt nồng ấp lạnh.
– Thời gian cứ dần trôi, “cách mấy nắng mưa” vừa chỉ thời gian xa cách đã bao mùa mưa nắng, vừa nói lên sức tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với cảnh vật và con người. Điển cố sân Lai, hình ảnh gốc tử trong Kinh Thị nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Gốc tử cũng vừa người ôm ẩn dụ hình ảnh của cha mẹ ngày thêm già yếu, thể hiện tấm lòng của người con hiếu thảo, thật cảm động và đáng trân trọng.
– Tám câu thơ tiếp là nỗi thương nhớ của Kiều về người yêu và gia đình.
Trình tự nỗi nhớ phù hợp với diễn biến tâm trạng của nhân vật, Kiều nhớ người yêu trước rồi nhớ tới cha mẹ.
– Trình tự nỗi nhớ hợp lý bởi vì Kiều đã hi sinh vì gia đình, vì cha mẹ. Khi Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ tới Kim Trọng bởi Kim Trọng không hề biết Kiều phải bán mình chuộc cha, Kim Trọng sẽ ngày đêm uổng công thương nhớ Kiều
b, Tác giả sử dụng hình ảnh có tính biểu trưng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ.
– “Chén đồng” hình ảnh gợi nhắc về đêm trăng thề nguyền giữa Kim Kiều. Nhưng giờ đây mỗi người một phương
Kiều tưởng tượng Kim Trọng ngóng trông nàng mỏi mòn.
“Tấm son” tấm lòng son sắt của Kiều vẫn hướng về Kim Trọng
– Nỗi nhớ về gia đình: sử dụng các điển tích “Sân Lai”, “Quạt nồng ấp lạnh” để nói về nỗi nhớ của Thúy Kiều về gia đình
Kiều lo cha mẹ già không có ai chăm sóc khi ở nhà.
Kiều là người con có hiếu, biết yêu thương, quan tâm tới cha mẹ.
→ Kiều là nhân vật giàu tình yêu thương, có hiếu. Kiều vượt lên trên nỗi đau của bản thân để suy nghĩ cho người yêu, gia đình.
Đọc tài liệu vừa hướng dẫn các em trả lời câu hỏi bài 2 trang 95 SGK ngữ văn 9 tập 1 với mong muốn giúp các em hiểu bài kỹ hơn, qua đó soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích trong chương trình soạn văn 9 được tốt nhất trước khi tới lớp
Bài 2 Trang 29 Sgk Ngữ Văn 9 Tập 1
Trả lời câu hỏi bài 2 trang 29 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Luyện tập sử dụng yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh
Hướng dẫn chi tiết trả lời bài 2 trang 29 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần trả lời câu hỏi luyện tập trên lớp, soạn bài Luyện tập sử dụng yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh ngắn gọn nhất giúp các em ôn tập tốt kiến thức trước khi tới lớp.
Viết một đoạn văn thuyết minh có sử dụng yếu tố miêu tả với một trong các ý (phần 1):
– Con trâu ở làng quê Việt Nam (hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam).
– Con trâu trong việc làm ruộng (sớm hôm gắn bó với người nông dân).
– Con trâu trong một số lễ hội.
– Con trâu với tuổi thơ ở nông thôn.
Trả lời bài 2 trang 29 SGK Ngữ văn 9 tập 1Một trong những lễ hội truyền thống đặc sắc của dân tộc mà lễ hội chọi trâu, thường được tổ thức vào đầu tháng tư hàng năm.
“Dù ai buôn bán trăm bề Ngày ba tháng bốn thì về chọi trâu”
Trâu được chọn để chọi trường là trâu to độ 4 -5 tuổi vào lúc sung sức nhất, da bóng mượt, đuôi cong vút, thân mình mở nang, lực lưỡng và thường là đuôi ngắn thì sức mới khỏe. Khắp làng trên xóm dưới ai cũng chọn làng mình một con trâu to khỏe nhất, đẹp mã nhất để tham gia cuộc thi. Khi bắt đầu thi đấu hai con trâu nhìn nhau hằn học rồi sau đó chúng lao vào nhau như hai võ sĩ quyền anh. Xung quanh mọi người hò reo cổ vũ cho trâu của mình thật sôi nổi và hào hứng. Con trâu chiến thắng là con trâu húc ngã đối phương hoặc làm cho đối phương bỏ chạy. Cổ động viên bên chú trâu chiến thắng vui sướng la hét om sòm, không khí chọi trâu thật vui vẻ.
Hình ánh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kì tích thống lĩnh 12 sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh chú cũng đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc… Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:
Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta. Cấy cày vốn nghiệp nông gia Ta đây trâu đấy ai mà quản công. Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Con trâu trên đồng ruộng.
Đã bao đời nay, trâu là con vật không thể thiếu được của người nông dân Việt Nam. Trên đồng ruộng, trâu lực lưỡng khỏe mạnh kéo những đương cày thẳng tắp như kẻ chỉ. Lực kéo trung bình trên ruộng 70- 75 kg bằng 0,36 – 0.4 mã lực. Trâu loại A mỗi ngày cày 3 – 4 sào, loại B cày 2 – 3 sào và loại C cày 1,5 – 2 sào Bắc Bộ. Vì vậy con trâu có ý nghĩa rất lớn đối với công việc đồng áng của người nông dân, câu tục ngữ: Con trâu là đầu cơ nghiệp xuất phát từ thực tế đó. Mùa gặt, trầu cần cù siêng năng kéo những xe lúa vàng ươm nặng trĩu về chất đầy kho. Những lúc mùa vã, trâu trong thả đứng gặm cỏ trên những bờ ruộng, trên lưng trâu một vài chú cò trắng tinh nghịch sà xuống, đó là biểu tượng cho cảnh yên bình của làng quê.
Bài 2 Trang 9 Sgk Ngữ Văn 7 Tập 1
Trả lời câu hỏi bài 2 trang 9 SGK Ngữ văn lớp 7 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Cổng trường mở ra
Hướng dẫn chi tiết trả lời bài 2 trang 9 SGK Ngữ văn lớp 7 tập 1 phần trả lời câu hỏi luyện tập, soạn bài Cổng trường mở ra ngắn gọn nhất giúp các em chuẩn bị tốt kiến thức trước khi tới lớp.
Hãy nhớ lại và viết thành đoạn văn về một kỉ niệm đáng nhớ nhất trong ngày khai trường đầu tiên của mình.
Trả lời bài 2 trang 9 SGK Ngữ văn 7 tập 9Gợi ý làm bài
Viết đoạn văn theo hệ thống ý sau:
– Sự chuẩn bị trước ngày khai trường
– Cảm xúc tối trước ngày khai trường
– Khung cảnh đường đến trường
– Suy nghĩ và cảm xúc khi rời vòng tay mẹ bước vào bên trong cánh cổng trường.
– Cảnh vật ngôi trường mới ( cây cối, sân trường, lớp học, bạn bè mới, thầy cô…)
– Cảm xúc khi nghe thầy cô phát biểu ngày khai trường
– Cảm xúc khi gặp cô giáo chủ nhiệm lớp
Bài văn tham khảo
Những kỉ niệm ngày đến trường đầu tiên khi vào học lớp 1 em vẫn nhớ như in. Sáng sớm hôm đó mẹ gọi em dậy để chuẩn bị vệ sinh cá nhân và ăn sáng. Xong xuôi, mẹ cho em được mặc bộ quần áo trắng tinh tươm và khoác chiếc cặp mới mẹ đã mua tặng em nhân ngày khai giảng. Mẹ đã dặn dò em phải lễ phép chào hỏi khi gặp thầy cô. Khi đến trường, em cũng nh bao bạn nhỏ khác đều háo hức đón chờ để nhận lớp với những người bạn mới. Ngày đầu tiên đi học trong sáng mùa thu tháng 9, bầu trời trong xanh và gió mát trong lành đã để lại trong em bao kỉ niệm đẹp về quãng đường học sinh.
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc trôi đi, lòng tôi lại náo nức những kỉ niệm mơn man của buổi trưa tựu trường.
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yểm nắm Lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần nầy tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi dang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dúm nhìn một nửa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thầm vụng và ước ao thầm được như những người học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.”
Đã trải qua 7 mùa khai trường rồi. Nhưng với em những kí ức về ngày khai trường đầu tiên trong cuộc đời mình vẫn cứ hiện lên một một khi em nghĩ về nó. Chỉ cần nghĩ tới là em lại cảm thấy rạo rực và nhớ y nguyên cảm xúc ban đầu ấy. Buổi sáng hôm đó không cần mẹ phải đánh thức dậy, em đã dậy rất sớm để chuẩn bị trang phục và chải tóc thật gọn gàng rồi xem lại cặp sách, mở nó ra em cảm nhận được mùi thơm của những quyển sách đã được bọc nhãn cẩn thận, tất cả mọi thứ đều mới. Tâm trạng của em hôm ấy ôi sao cũng rạo rực lạ kì như thế. Mọi thứ đã sẵn sàng, mẹ dắt tay em đi trên con đường làng quen thuộc, cùng mẹ bước đi nhưng lòng em lại bắt đầu thấy hơi hồi hộp và lo lắng, chắc cũng đã cảm nhận được sự hồi hộp của em mà mẹ đã an ủi em bằng cách kể lại ngày đầu tiên mẹ được ông ngoại dẫn tới ngày khai trường đầu tiên của mình. Em như cuốn vào câu chuyện của mẹ mà quên đi cảm giác hồi hộp ban đầu. Ngày đầu tiên tới trường của em đã diễn ra rất suôn sẻ và tuyệt vời.
Bài 2 Trang 54 Sgk Ngữ Văn 9 Tập 1
Trả lời câu hỏi bài 2 trang 54 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp
Tài liệu hướng dẫn trả lời câu hỏi bài 2 trang 54 SGK Ngữ văn 9 tập một phần trả lời câu hỏi Luyện tập, soạn bài Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp chi tiết và đầy đủ nhất.
a) (Hồ Chí Minh, Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng) Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng. (Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại). c) (Đặng Thai Mai, Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc) Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình.
b) Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác phong, Hồ chủ tịch cũng rất giản dị trong lời nói và bài viết, vì muốn cho quần chúng nhân dân hiểu được, nhớ được, làm được.
Trả lời bài 2 trang 54 SGK Ngữ văn 9 tập 1(a)
Câu trả lời tham khảo
(b)
– Dẫn theo cách trực tiếp: Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta phải ghi nhớ… của một dân tộc anh hùng”.
– Dẫn theo cách gián tiếp: Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng chúng ta phải ghi nhớ… của một dân tộc anh hùng.
(c)
– Dẫn theo cách trực tiếp: Khi nói về đức tính giản dị của Bác, Thủ tướng Phạm Văn Đông nhận định: “Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác phong, Hồ Chủ Tịch cũng rất giản dị trong lời nói và bài viết, vì muốn cho quần chúng nhân dân hiểu được, nhớ được, làm được”.
– Dẫn theo cách gián tiếp: Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng Bác Hồ là một con người sống rất giản dị, giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác phong, trong cả lời nói và bài viết, vì muốn nhân dân hiểu được, nhở được, làm được.
– Dẫn theo cách trực tiếp: Ông Đặng Thai Mai khẳng định: “Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình”.
– Dẫn theo cách gián tiếp: Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai khẳng định rằng người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng của mình.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng.
– Dẫn trực tiếp
– Dẫn gián tiếp
Bài 2 Trang 203 Sgk Ngữ Văn 9 Tập 1
Trả lời câu hỏi bài 2 trang 203 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)
Hướng dẫn chi tiết trả lời bài 2 trang 203 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần trả lời câu hỏi luyện tập, soạn bài Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) ngắn gọn nhất giúp các em luyện tập tốt kiến thức trước khi tới lớp.
Em hãy viết lại đoạn truyện kể về cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu theo lời hồi tưởng của một nhân vật khác (ông Sáu hoặc bé Thu).
Trả lời bài 1 trang 203 SGK Ngữ văn 9 tập 1– Xác định ngôi kể: ngôi thứ nhất; người kể chuyện là bé Thu (xưng “tôi”) – Nội dung: Kể lại cuộc gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” và người cha (ông Sáu) – Chú ý thay đổi một số chi tiết cho phù hợp với ngôi kể thứ nhất với người kể chuyện là bé Thu (thay tâm trạng của nhân vật bác Ba bằng diễn biến tâm trạng, suy nghĩ của bé Thu)
Tối qua nghe lời bà giảng giải tôi đã hiểu ra tất cả mọi chuyện. Thì ra người tôi vẫn ruồng bỏ mấy ngày nay chính là ba tôi. Chỉ tại chiến tranh mà tôi đã cứng đầu không nhận ra ba. Sáng cuối cùng ba tôi còn ở nhà, tôi theo ngoại về, lòng đầy day dứt, ân hận. Nhà tôi sáng hôm ấy rất đông họ hàng nội ngoại. Ba tôi bận bịu tiếp khách, tôi đứng nép vào góc nhà, tựa cửa và nhìn mọi người đang vây quanh ba tôi. Tôi muốn chạy lại phía ba, gọi ba nhưng chỉ có thể đứng trân trân ở đấy. Đến lúc chia tay, sau khi bắt tay hết mọi người, ba tôi đưa mắt nhìn tôi đứng trong góc nhà. Ba nói khe khẽ “Thôi! Ba đi nghe con!”. Tôi như vỡ òa, nỗi nhớ ba không thể kìm nén được nữa, thét lên “Ba…a…a…ba!”. Tôi ôm cổ ba, vừa khóc vừa nói không muốn cho ba đi. Hai ba con ôm hôn nhau, tôi hôn cả vết thẹo dài bên má ba tôi. Ba tôi một tay ôm tôi, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên tóc tôi và bảo “Ba đi rồi ba về với con”. Tôi vẫn không thể chấp nhận được sự thật rằng mình phải xa ba ngay lúc này, lỗi của tôi đã phung phí thời gian ở cạnh ba những ngày vừa rồi. Nhưng biết ba phải đi kháng chiến, chẳng đành nhưng tôi với ba cũng phải chia tay nhau. Trước khi ba đi, tôi mếu máo bảo ông: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba” rồi từ từ tuột xuống khỏi tay ba. Đó là lần cuối cùng tôi còn được gặp ba mình.
Cha tôi xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi tôi lên tám tuổi, cha mới có dịp về thăm nhà, thăm tôi. Tôi không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cho tôi thấy không giống với cha trong bức ảnh chụp chung với má. Tôi đối xử với cha như người xa lạ. Đến lúc tôi nhận ra cha, thì cũng là lúc cha phải ra đi. Tại khu căn cứ, cha tôi dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng tôi. Trong một trận càn, ông hy sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho tôi.
Tôi còn nhớ như in, những ngày đầu khi ba về, nhìn vết thẹo dài trên má của ba, tôi vừa sợ, vừa không tin đó là ba. Những ngày ba ở nhà, tôi bướng bỉnh không nhận ba. Cho tới khi được bà ngoại giải thích, lúc tôi nhận ra ba cũng là lúc ba phải trở lại chiến trường. Lúc chia tay ba, tôi sợ ba đi mất, tôi hét lên “ba ở nhà với con” trong tiếng nức nở, rồi tôi quắp hai chân chặt lấy người ba, tôi hôn ba cùng khắp, rồi còn đòi ba hứa tặng tôi cây lược ngà.
Cập nhật thông tin chi tiết về Bài 2 Trang 15 Sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!